Đo điện thế kích phát của xương cùng và bệnh liệt dương

Người bệnh liệt dương làm thế nào tiến hành đo xác định điện thế kích phát của xương cùng

Chẩn đoán đối với bệnh liệt dương, trên lâm sàng có nhiều phương pháp kiểm tra vật lí và đo xác định bằng thiết bị máy móc để giúp cho việc chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh. Việc đo xác định điện thế kích phát của xương cũng là phương pháp kiểm đo chính xác những tổn thất về thần kinh của bệnh liệt dương do thần kinh, qua đó biết rõ tổn thất, vị trí tổn thất và tính chất của tổn thất. Phương pháp này trên thực tế là đo xác định điện sinh lí hoạt động phản xạ của cơ thể đốì với cơ xương xốp hình quả cầu. Khi tiến hành thí nghiệm này, cần phải đặt ở đầu dương vật một điện cực hình vòng khuyên, thông qua điện cực này làm tăng thêm kích thích đối với da dương vật, sau đó lợi dụng điện cực hình chiếc kim cắm lên cơ xương xốp hình quả cầu và thiết bị đồng hồ đo cơ điện đồ nối liền với nhau để ghi ra phản xạ của cơ xương xốp hình cầu. Thiết bị đồng hồ đo này bắt đầu từ sự kích thích ở qui đầu dương vật đến cơ xương xốp hình quả cầu ghi ra thòi gian phản ứng đầu tiên, thời gian tiềm phục phản xạ bình quân của cơ xương xốp hình quả cầu của nam giới có khả năng dương vật cương cứng là 35 ± 1,2 mS (milisecond).

Bệnh liệt dương đo điện thế

Đây là một chỉ tiêu được ứng dụng rộng rãi nhất trong việc kiểm tra sinh lí học thần kinh của bệnh liệt dương. Nó là một phản xạ đột phá đa chiều giao chéo giữa bên trái và bên phải, kích thích một bên có thế dẫn đến phản ứng tiềm phục của cùng bên và của bên đốì diện. Trong thí nghiệm sử dụng mỗi giây 1 lần, mỗi lần duy trì liên tục kích thích mạch xung Square 1 mS, từ từ đưa cường độ mạch xung từ 30V tăng lên đến 60V, hoặc từ 6mA tăng lên đến 9mA, để làm cho đại đa sô” người bệnh có thể xác nhận kích thích điện lần đầu cảm thấy được. Khi cường độ mạch xung từ 45V tăng lên đến 60V hoặc từ 9mA tăng lên đến 12mA, thường có thể xác nhận phản ứng lần đầu trị sô” phạm vi giới hạn phản xạ của cơ điện đồ. Khi tăng cường độ từ 60V đến 90V hoặc từ 12mA lên đến 15mA sẽ nghiệm chứng thời kì tiềm phục phản xạ nhỏ nhất. Căn cứ theo suy đoán, con đường phản xạ này bao gồm thần kinh lưng dương vật và thần kinh dương bộ truyền vào thần kinh xơ sợi, tủy cột sống và thần kinh âm bộ để truyền vào nhánh sâu của thần kinh xơ sợi và thần kinh hội âm. Đặc trưng của phản xạ này là:

© Cùng với sự tăng thêm cường độ kích thích, thời gian tiềm phục của phản xạ nhỏ nhất giảm thiểu.

© Kích thích của thần kinh một bên có thể ghi được phản ứng cơ điện đồ của 2 bên. Phản ứng cơ điện đồ có thể ghi được từ bản thân cơ xương xốp hình quả cầu, hoặc ghi được cơ vòng ngoài của đường niệu hoặc cơ vòng của hậu môn. Định nghĩa điện thế kích phát của xương cùng khác thường là thòi gian của thời kì tiềm phục phản xạ lốn hơn trị sô” bình quân (30 ~ 40 mS) cộng với sô” chênh lệch tiêu chuẩn, nó chứng tỏ có sự tồn tại biến đổi bệnh lí ở thần kinh. Thời gian tiềm phục bình quân của người bệhh liệt dương là 70mS.

Đo xác định điện thế kích phát của xương cùng có ý nghĩa như thế nào đối với việc chẩn đoán định vị của liệt dương do thần kinh?

Khi giải thích kết quả thí nghiệm cần phải hết sức thận trọng. Mặc dù đo xác định điện thế kích phát của xương cùng là công năng của thần kinh thân thể, chứ không phải là đánh giá thần kinh tự chủ như thần kinh xương xốp, nhưng có thể sẽ liên hệ đến biến đổi bệnh lí, thần kinh của thần kinh tự chủ, đặc biệt là biến đổi bệnh lí của thần kinh tự chủ trong thần kinh trung khu. Vì neuron, phó giao cảm trong chất xám ở giữa về giải phẫu ở sát gần với neuron thân thể, do đó, giá trị kiểm đo của nó hình như là chứng thực tổn thương thần kinh tương quan với chướng ngại công năng cương cứng lên, hơn nữa, là một hạng mục kiểm đo chẩn đoán chính xác, chứ không phải là một thí nghiệm bình thường của người bệnh liệt dương. Có thể căn cứ vào kết quả kiểm tra của thí nghiệm kích phát xương cùng để tiến hành phân loại giải phẫu những tổn thương thần kinh:

  • Sự biến đổi bệnh lí của thần kinh cảm giác ngoại biên. Sau khi có những biến đổi của thần kinh cảm giác ngoại biên do bệnh tiểu đường và uống rượu say gây nên, thời gian truyền dẫn của ngoại biên xuất hiện khác thường. Những người có những biến đổi bệnh lí ở thần kinh vận động ỏ ngoại biên có thể có thòi gian truyền dẫn cảm giác ở ngoại biên bình thường, nhưng thí nghiệm điện thế kích phát ở xương cùng (vận động và cảm giác) thì thời gian tiềm phục phản xạ ở xương xôp hình quả cầu đo được có thể kéo dài khác thường.
  • Tổn thương ở tủy xương cùng: Khi nghi là có tổn thương ở tủy xương cùng do xơ cứng có tính đa phát, tổn thương tủy xương cột sông hoặc có khối u ở hệ thống thần kinh trung khu, có thể chứng thực người bệnh có thời gian truyền dẫn ở ngoại vi và truyền dẫn chung kéo dài.
  • Tổn thương ở những bộ vị trên tủy xương cột sông: Khi viêm tủy xương cột sông có tính đứt ngang, bị bệnh ở cột sông cổ, tổn thương ở đầu hoặc ở tủy xương cột sông gây nên những tổn thương ở tủy xương cột sông ở bộ vị trên của xương cùng thì thòi gian truyền dẫn chung và thời gian truyền dẫn ở trung khu của người bệnh có thể kéo dài, còn thời gian truyền dẫn ở ngoại biên bình thường.

Kiểm tra có tính định vị đối với bệnh liệt dương do thần kinh còn có thể thông qua thí nghiệm điện thế kích phát của cảm giác thân thể ở thần kinh lưng. Sự khác thường của thí nghiệm này chứng tỏ người bệnh có chướng ngại công năng sinh dục: Như sau khi tổn thương thần kinh lưng của động vật có thể quan sát được sự giảm thiểu hoạt động giao hợp, phóng tinh khác thường. Sau khi thần kinh ở lưng dương vật bị tổn thương, khả năng cương cứng dương vật của người bệnh có ảnh hưởng bất lợi. Để đạt được độ cứng cần thiêt khi giao hợp, có khi cần phải kích thích thần kinh ở đĩa đệm xương cột sông nhiều lần liền mấy ngày. Thần kinh lưng sẽ cung cấp đầy đủ những tín hiệu cảm giác cho trung khu đại não để tiện làm cho tín hiệu phản ứng xung động thông qua truyền dẫn của đại não – xương cùng thông đường đến tới thần kinh ở xương xốp của đĩa đệm.