Liệt dương là một loại hình triệu chứng thường gặp nhất, nghiêm trọng nhất trong những chướng ngại về công năng sinh dục của nam giới. Căn cứ vào các văn kiện có liên quan của các nước, người bị liệt dương chiếm khoảng trên 40% sô” người bị chướng ngại về công năng sinh dục, có trên 20% sô” người có các loại chướng ngại về công năng sinh dục ở những mức độ khác nhau. Bệnh liệt dương không chỉ làm mất đi niềm sung sướng ‘ trong sinh hoạt tình dục, mà còn ảnh hưởng đến những nhân tô” quan trọng như sức khỏe về thể chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng đến sự hòa hợp trong gia đình và sự ổn định của xã hội.

Từ ngày có sự “đổi mới” đến nay, công cuộc xây dựng kinh tê” của nước ta đã có sự phát triển mạnh mẽ, sự giao lưu quốc tê” cũng ngày một tăng cường. Phương
thức sinh hoạt mới làm cho nhịp điệu sinh hoạt tăng nhanh rõ rệt, tâm lí xã hội, quan niệm đạo đức, cách giải quyết mọi việc của con người đều có những biên đổi. Sinh hoạt, công tác, học tập bận rộn làm cho rất nhiều người mất đi cái thú đi dạo chơi ngắm hoa dưới trăng, sự giao lưu tình cảm giữa vợ chồng cũng ít, thậm chí có những ngày lễ, ngày nghỉ cũng rất ít cùng mọi người trong nhà đoàn tụ. Tình cảm vợ chồng cũng có phần xa cách và có khi lại có sự nghi ngờ lẫn nhau, đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bệnh liệt dương do tinh thần.
Trong nghiên cứu, quan sát bệnh liệt dương, hầu như có tới trên 85% sô” người bị liệt dương có nhân tô” tâm lí. Không ít người có những tổn thương về tinh thần bắt nguồn từ thời kì còn nhỏ tuổi. Như sự mất thăng bằng chi phôi trong quan hệ cha mẹ, có biếu hiện là cha thì đi xa dài ngày, không ở nhà, mọi việc ở nhà là do mẹ đảm nhiệm cả, hoặc sau khi cha mẹ li dị, trong nhà, người mẹ giữ địa vị chi phôi tất cả. Hàng ngày ở với mẹ cùng một phòng, ngủ cùng giường cho mãi đến thời kì thanh xuân, thậm chí còn đê cho mẹ giúp tắm giặt, mặc quần áo cho, từ nhỏ đã có tư tưởng quyến luyến với mẹ, sau khi thành người lớn thường mất đi khí chất nam nhi kiên cường, mạnh mẽ. Cũng có người tiếp cận với sự uy nghiêm của người mẹ, nên đô”i với nữ giới có sự sợ hãi, không thích gần, kết quả là thành thục về mặt sinh lí thòi kì thanh xuân nhưng tính cách thì chưa thành thục.
Những nhà nghiên cứu còn phát hiện do sự ràng buộc của những gia đình tôn giáo quá nghiêm khắc, ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến lâu đời, làm cho người bệnh ngay từ nhỏ đã nhận thức rằng sinh dục và sinh hoạt tình dục là việc bẩn thỉu, việc lỗi lầm, việc dâm uế. Với sự giáo dục gọi là chính thông này, sự hình thành ý thức tư tưởng ức chế rất mạnh về mặt tâm lí đối với sinh dục, sau khi kết hôn dễ phát sinh liệt dương. Ngoài ra, lần đầu sinh hoạt tình dục đã thất bại; quan hệ hôn nhân miễn cưỡng, mang lòng thù địch, oán hận hoặc ghê sợ đối với VỢ; người quá mệt mỏi, tinh thần quá căng thẳng hoặc ý chí sa sút, môi trường sinh hoạt tình dục không tốt, bị nhiễu loạn, điều kiện sinh hoạt kém, hai thế hệ thậm chí cả ba thế hệ đều ở chung trong một nhà, trước khi sinh hoạt tình dục quá lo lắng, như sợ có thai, sợ bị truyền nhiễm bệnh v.v… tất cả những yếu tô” đó đều có thể gây ra ức chế, buồn phiền, lo lắng về mặt tâm tư, tình cảm và tâm trạng mà phát sinh liệt dương.
Hai chuyên gia nước ngoài là Mastes và Johnson đã từng nêu ra nguyên nhân của bệnh liệt dương nguyên phát phần lớn đều do tim. Trước đây quan niệm truyền thông cho rằng liệt dương chủ yếu do nhân tô” tâm lí và tinh thần tạo nên, vì thế trên lâm sàng điều trị nặng về tâm lí. Từ thập kỉ 80 của thê” kỉ 20 trở lại đây, y học đã chứng thực trong bệnh liệt dương có tính nguyên phát nhân tô” có tính khí chất thấy nhiều, đặc biệt là bệnh liệt dương do nội tiết và do huyết quản thần kinh. Nhằm đúng các nguyên nhân gây bệnh liệt dương này, trên lâm sàng áp dụng nhiều phương pháp điều trị mới, làm cho rất nhiều người bệnh liệt dương được khỏi bệnh, phục hồi sức khỏe tô”t. Trị liệu trên lâm sàng bệnh liệt dương thời đại hiện nay có thể chuyển hướng từ điều trị nặng về tâm lí sang một thời kì mới là điều trị tổng hợp kết hợp giữa điều trị bằng tâm lí với những phương pháp điều trị khác như điều trị bằng thuốc, bằng phẫu thuật, ở phương Tây có nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu kết cấu siêu hiển vi (ultrastructure) đối với tế bào tổ chức làm cương cứng dương vật và phát hiện tế bào cơ nhẵn trong thân xương xốp của dương vật có biến đổi bệnh lí rõ rệt, đó là nhân tô” quan trọng dẫn đến liệt dương.
Nguyên nhân phát bệnh liệt dương có tính kế phát hết sức phức tạp: những bệnh có tính toàn thân và những bệnh có tính cục bộ dẫn đến bệnh liệt dương kế phát, có nhân tô” sau khi ra đời, cũng có nhân tô” tự bẩm sinh, có nhân tô” có tính khí chất, cũng có những nhân tô’ có tính tâm lí, cho nên khó có cách gì tiến hành phân tích có hệ thông được. Thứ hai nữa là bệnh liệt dương thường lẫn với bệnh xuất tinh sớm. Có tài liệu khoa học nêu ra, trong sô” 305 người bị bệnh liệt dương thì có tới 86 người có lịch sử bị bệnh xuất tinh sớm. Nói một cách nghiêm túc, bệnh xuất tinh sớm và bệnh liệt dương là 2 tên bệnh khác nhau, có sách giáo khoa khoa học đặt bệnh xuất tinh sốm dưới tên bệnh liệt dương. Hiện nay vẫn chưa rõ được là có bao nhiêu người bệnh xuất tinh sớm nhất định phải phát sinh bệnh liệt dương. Nói một cách chính xác, tuyệt đại đa sô” người bệnh xuất tinh sớm là do chướng ngại về tâm lí gây nên. Khắc phục những nhân tô” tâm lí, tinh thần, lập lại phản xạ phóng tinh có hiệu quả điều trị rõ rệt đối với xuất tinh sớm.
Đốĩ với những chướng ngại công năng sinh dục của nam giới do nhân tô” tinh thần, tức nhân tô” tâm lí tạo nên, căn cứ vào nguyên nhân gây bệnh, áp dụng các biện pháp điều trị về tinh thần, điều trị bằng hành vi nhất định, đại đa số người bệnh có thể thu được hiệu quả rất tốt. Những phương pháp này bao gồm triển khai việc giáo dục về sinh dục và tư vấn những tri thức về sinh dục; vận dụng phương pháp điều trị bệnh bằng tinh thần, tâm lí dưới nhiều hình thức, như phân tích tâm lí, liệu pháp nhận thức, tiêu trừ lo lắng, thúc ngủ và ám thị; tăng cường sự hợp tác giữa hai vợ chồng, những cái đó đều giúp cải thiện công năng sinh dục.
Đối vối liệt dương có tính khí chất do các nguyên nhân gây nên, những năm gần đây người ta dùng thuốc hoạt tính ở huyết quản tiêm vào thân xương xốp của dương vật và những thuốc loại sex hormone, ovestrin qua đó đã thu được hiệu quả điều trị và kinh nghiệm nhất định. Những năm gần đây, xuất hiện kĩ thuật tạo hình huyết quản, kĩ thuật cấy ghép thân dương vật giả đã đem lại cho những người liệt dương những hy vọng phục hồi được sức khỏe. Thế kỉ 21 này, cùng với sự nâng cao không ngừng trình độ khoa học kĩ thuật của thế giới, việc điều trị những trở ngại về công năng sinh dục của nam giới sẽ ngày càng thu được những thành tựu lớn hơn.